Người bốn lần được làm lễ truy điệu sống

LTS: Nhân kỉ niệm 47 năm Ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước 30/4/1975-30/4/2022), để tưởng nhớ và tri ân những con người đã hi sinh và cống hiến tuổi thanh xuân của mình, lên đường chiến đấu chống ngoại xâm bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc, Tạp chí Công nghiệp tàu thủy Việt Nam xin giới thiệu với bạn đọc bài viết “Người bốn lần được làm lễ truy điệu sống”, kể về một người lính đã từng 04 lần tham gia Đoàn tàu không số anh hùng, chở vũ khí vào Nam phục vụ kháng chiến.  Bài viết in trong cuốn “Hành quân qua vùng Đông Bắc” do Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Ninh ấn hành năm 2004.

Cán bộ, chiến sỹ tàu không số vận chuyển hàng hóa, vũ khí chi viện cho miền Nam. (Ảnh tư liệu internet)

Đã nghe nhiều, đọc nhiều bài báo viết về ông, nhưng chưa một lần được gặp. Trong chuyến công tác lần này, chúng tôi đặt điều kiện: Việc làm đầu tiên là tìm đến con tàu đánh cá, soi mực có số hiệu 42 để được gặp ông, người chiến sĩ kiên cường trên đường mòn Hồ Chí Minh trên biển năm xưa mà nhiều người gọi là “ông 42”.  Một người lính đã “gác súng để cầm mái chèo” đang ngày đêm ngân vang những bài ca gọi cá vào ở giữa lòng một Di sản thế giới mang tên Vịnh  Hạ Long.

Nếu đi tàu từ đất liền ra Cửa Vạn, có nhanh chúng tôi cũng phải mất đến 2 tiếng đồng hồ. Trước mặt chúng tôi là những dãy núi lô xô, lúc quần tụ, lúc rải rác như mọc lên từ mặt biển xanh trong, ẩn khuất trong đó là những ngôi nhà nổi của cư dân làng chài Cửa Vạn ngôi làng có từ ngàn đời nay. Với 582 khẩu, 122 hộ người dân làng chài Cửa Vạn cũng sống kiên trì, dũng cảm chống chọi với biển khơi như người chiến sĩ kiên cường trên biển năm xưa: Nguyễn Tài Lộc. 

Ông 42 là cái tên mà người ta đặt cho ông để nhớ chuyến tàu không số có số hiệu 42. Nguyễn Tài Lộc, một cựu chiến binh có nhiều công lao với cách mạng và là người điển hình trong những người tham gia kháng chiến chống Mĩ cứu nước của nhân dân thôn Cửa Vạn, thành phố Hạ Long.

Ông Nguyễn Văn Quang - Trưởng thôn Cửa Vạn, nói với chúng tôi: Ở thôn này, ai mà chẳng biết cái ông Tài Lộc 42 ấy. Hôm nay các anh ra là gặp may đấy. Ông ấy đang có nhà. Sáng mai sẽ lên đất liền đi lên đà cho con tàu 42 cũ kĩ.

Trên một con đò (người dân nơi đây gọi là chèo bơi), ông Nguyễn Văn Cải - Đội trưởng Đội dân quân tự vệ thôn, khoan thai mái chèo chở chúng tôi đến tàu số 42 của ông Lộc. Trong câu chuyện với chúng tôi trên con tàu 42, bên chén nước chè Vân (còn gọi là chè Bản Sen, một loại chè được trồng từ đảo Bản Sen – Vịnh Hạ Long), ông Tài Lộc vui vẻ tiếp chúng tôi và trong sự hồi tưởng, nhớ về một thời, lẫn trong cái hăng say của con người bình dị, nhiệt tình, ông kể cho chúng tôi nghe những câu chuyện từ thời chiến tranh đẫm máu đến câu chuyện gia đình ông.

Với dáng vẻ của người vất vả, mái tóc cứng đơ, vuốt ngược, làn da sạm màu nắng biển, lẫn tiếng nói oang oang của người lính chiến, chúng tôi bị cuốn hút vào những câu chuyện, những kỉ niệm một thời của ông.

Quê gốc của Nguyễn Tài Lộc ở Vụ Bản, Nam Định. Ông của Nguyễn Tài Lộc được đi học tử tế, năm 1945, vì đói kém nên đã xin ra Quảng Ninh làm phu mỏ. Vì cụ có hiểu biết Tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nhật nên Sở La Bích (như Sở Du lịch ngày nay) tuyển dụng vào làm tiếp viên giao dịch (thông ngôn – phiên dịch) ở khu vực hang Bồ Nâu, hang Tây Chơi. Khu vực này thời Pháp thuộc có nhiều khách tới thăm. Hang Tây Chơi là tên gọi cũ của hang Sửng Sốt. Trước đây, vì có nhiều Tây đến thăm và ở đó nên dân quanh vùng gọi là hang Tây Chơi. Tình cờ, chẳng hẹn mà thành duyên, ông cụ lấy một người con gái làm nghề chài lưới quê gốc ở Cát Hải, Hải Phòng đang sinh sống ở khu vực Bồ Nâu.

Từ đó, đời cha đến đời Nguyễn Tài Lộc bắt đầu theo nghề đánh cá trên biển của bà cụ người Cát Hải. Năm 1964, ông Lộc được gọi tuyển nghĩa vụ quân sự. Ngày 02/02/1964, ông nhập ngũ. Sau khi huấn luyện ở Tiên Yên, ông được vào đoàn tàu không số Binh chủng Hải quân. Cuộc đời chinh chiến của một ngư dân làng chài bắt đầu từ đây. Phải nói rằng, giữa lúc cuộc chiến tranh đang ác liệt, con người đang đứng trước sự sống và cái chết thì ông đã không nghĩ đến cái chết mà nghĩ đến độc lập dân tộc, cơm áo, hạnh phúc cho nhân dân... Người chiến sĩ ra trận mà lòng phơi phới, “đường ra trận mùa này đẹp lắm”, “đường đánh giặc mới là đường đẹp nhất’,...  

Năm ấy, Quảng Ninh chỉ có 3 người được tuyển vào đoàn tàu không số. Ngoài Nguyễn Tài Lộc ra còn 2 người khác là Lưu Quang Phú, Nguyễn Văn Khoa.

Ngày 05/8/1964, ông cùng 16 chiến sĩ nhận chuyến tàu 400 tấn vũ khí đầu tiên trên tàu 42 thuộc Đoàn 125 Đoàn tàu không số, do thuyền trưởng Nguyễn Tấn Đạt chỉ huy chở vào Ràm Sông Cầu (Bến Tre). Sau 102 ngày lênh đênh trên biển, cập bến an toàn. Chuyến thứ hai vào tháng 10/1964, đoàn tàu không số do thuyền trưởng Đỗ Tấn Út chỉ huy chở vũ khí vào Cà Mau. Đoàn hoàn thành nhiệm vụ. Lúc trở về, vì nhiều lí do, không về Việt Nam ngay mà cập bến vào đảo Hải Nam. Chuyến thứ ba, chở vũ khí vào vào Sóc Trăng. Lần này, đoàn Bị tàu khu trục Mĩ phát hiện, theo dõi.

Sau 1 tháng, thuyền trưởng điện về Bộ Tư lệnh xin ý kiến và được lệnh về Hải Nam. Chuyến thứ tư, cũng là chuyến cuối cùng, vào ngày mùng 1 Tết năm 1967, nhận 400 tấn vũ khí chở vào Bình Sơn, Sơn Tịnh (Quảng Ngãi). Khi tàu đến bờ biển Quảng Ngãi bị phát hiện. Các chiến sĩ trên tàu được lệnh chiến đấu đến cùng đế bảo vệ tàu. Cuối cùng toàn đội được lệnh rời tàu, và cho toàn bộ 400 tấn vũ khí nổ tung, kiên quyết không để rơi vào tay địch.

Nguyễn Tài Lộc bơi 4 km vào bờ, dính bom địch và bị thương ở mặt. Sau đó, ông được gửi ra bắc điều trị. Tháng 10/1970, Nguyễn Tài Lộc xuất ngũ, về quê hương. Cũng sau chuyến cuối cùng ấy, Nguyễn Tài Lộc được vinh dự đứng vào hàng ngũ những người của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Bốn lần Nguyễn Tài Lộc chở vũ khí vào Nam là 4 lần được đồng đội tổ chức Lễ truy điệu sống. Địa điểm làm lễ truy điệu: 2 lần tại cửa hang Sửng Sốt, 1 lần tại Cửa Đông, Vịnh Hạ Long và 1 lần ở Trung Quốc.

Lễ truy điệu sống diễn ra ở trên boong tàu. Trước khi giao nhiệm vụ, có các đồng chí từ Trung ương, Bộ Tư lệnh Hải quân xuống. Sau khi nhận nhiệm vụ từ các đồng chí lãnh đạo, buổi lễ được diễn ra theo nghi thức long trọng. 12 đồng chí lên đường vào Nam xếp thẳng hàng trên boong, nghe đồng chí cấp trên đọc Lễ truy điệu  “Không may, trên đường gặp địch, các đồng chí hãy chiến đấu hết mình”.

Cả đội nghiêm trang nhìn lá cờ đỏ sao vàng của Tổ quốc, với tinh thần quyết đánh thắng giắc Mĩ, ‘quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Sau lời đọc đó, cả đội liên hoan và lên đường.

Bốn chuyến tàu đi như vậy, thời gian có chuyến chỉ có 25 ngày, nhưng có chuyến mất 3 tháng lênh đênh trên biển. Đoàn tàu không số của đoàn ông Tài Lộc đi có đặc điểm không một đồ dùng, phương tiện gì có số. Trên tàu có treo cờ của Nhật Bản và có người phiên dịch tiếng Nhật Bản nếu khi gặp đối phương. Tàu không số chủ yếu lấy vũ khí, lương thực từ Đồ Sơn (Hải Phòng), đi qua Vịnh Hạ Long, Trung Quốc, Phi líp pin, Cà Mau, vào Bến Tre. Tại hang Bồ Nâu, đã có tàu của đơn vị khác chở lương thực, vũ khí để sẵn ở đó, tàu không số chỉ việc đến nhận.

 Trong đơn vị, (Mỗi chuyến đi, chỉ có khoảng 12 đến 17 đồng chí) chủ yếu là các chiến sĩ người Nam Bộ. Điểm xuất phát ở trên Vịnh Hạ Long gồm có 2 điểm: Khu vực cửa hang Bồ Nâu - Sửng Sốt và Cửa Đông (Vịnh Hạ Long ).

Tàu không số thay đổi theo từng thời kì. Đầu tiên dùng tàu gỗ, sau dùng tàu Quảng Châu, rồi sau nữa dùng tàu cao tốc, tàu phá ngư lôi,… Trước khi trúng tuyển vào đoàn tàu không số, Nguyễn Tài Lộc đã là một người thanh niên yêu nước, là người trong Đoàn Thanh niên Lao động, nắm được Điều lệ Đảng, biết được nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giành lại độc lập tự do, hiểu được người thanh niên lúc đó phải làm gì đối với Tổ quốc. Lúc đó, người được trúng tuyển vào tàu không số rất vinh dự. Vinh dự là được bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân và bảo vệ cả quê hương, làng xóm, gia đình.

Lãnh đạo Lữ đoàn 147, Vùng 1 Hải quân tặng quà cho gia đình CCB Nguyễn Tài Lộc trong lễ bàn giao
nhà tình nghĩa

Sau khi ra khỏi quân ngũ, Nguyễn Tài Lộc lại trở về với làng chài Cửa Vạn và xây dựng gia đình năm 1973, lại trở về với cuộc sống đánh bắt cá tôm, hòa vui chung cùng biển cả, cùng xóm giềng, anh em. Nguyễn Tài Lộc tham gia xây dựng đội dân quân tự vệ biển ở Cửa Vạn.

Ngày 5/7/2000, Ban chính sách Cục chính trị Bộ tư lệnh Hải quân gửi cho Nguyễn Tài Lộc giấy chứng nhận chưa được hưởng Huân, Huy chương tham gia chống Mĩ cứu nước số 30/CS do thượng tá Nguyễn Thái Hòa kí. Đến năm 2001, Nguyễn Tài Lộc nhận được Huy chương chiến sĩ vẻ vang và Kỉ niệm chương về đoàn tàu không số của lữ đoàn 125 cấp ngày 14/10/2001 do Chuẩn Đô đốc Đỗ Xuân Công kí.
Khi chia tay ông, bên ngoài trời đã xế chiều. Mặt trời khuất dần sau dãy núi. Khói mây không biết từ đâu cứ tràn về khắp làng chài. Ông Lộc bảo, thời tiết sắp thay đổi. Ngày mai trời sẽ lạnh. Tôi thì nghĩ khác. Thời tiết có thể theo tứ mùa tuần hoàn, xuân - hạ - thu - đông, hết nắng rồi mưa,... nhưng với ông Lộc, thì mong cho “trời mỗi ngày lại sáng” để giấc mơ làm một căn nhà nổi của ông sớm thành hiện thực.

Bao năm chinh chiến, đối mặt với cái chết, bao năm sinh tử cùng biển khơi, người dân chài, người cựu chiến binh Nguyễn Tài Lộc chỉ mong làm được một chiếc bè để ở. Ước mơ chỉ giản dị vậy thôi mà khó thành hiện thực.

Một cuộc đời binh nghiệp, một cuộc đời nghèo, cái giá trị nhân văn mà Nguyễn Tài Lộc để đọng lại trong chúng tôi chính là những bài học về lòng yêu nước, bảo vệ Tổ quốc, bài học về sự cần lao, giản dị và sống hết mình. Ông chính là một nhân chứng chiến tranh, một tấm gương để ôn lại những trang sử hào hùng của dân tộc. Cuộc chiến tranh đã qua đi, những giá trị, chân lí đã được chứng minh. Trong cái đời thường hôm nay, ẩn chứa bao điều kì diệu. Điều kì diệu có từ quá khứ, đi đến tương lai.

Đến đây, tôi lại nhớ đến bài “Đường Hồ Chí Minh trên biển, sáng tạo kì diệu của trí tuệ và bản lĩnh Việt Nam” trên Báo Nhân Dân, ngày 22/10/2001 đồng thời trích lại một phần xin được coi là lời kết của bài viết: “Trên con đường đó (đường Hồ Chí Minh trên biển) biết bao cán bộ, chiến sĩ  đã nằm lại biển sâu. Những người còn sống sau chiến tranh lại trở về với gia đình, quê hương, khiêm nhường sống và lao động giữa xóm làng, phố phường, kênh rạch, núi đồi,... Hôm qua, họ chấp nhận vô danh vì nhiệm vụ phải đảm bảo bí mật. Hôm nay, thậm chí họ cũng vô danh lẫn mình trong sự bất tận của cuộc sống thường ngày.  Nhưng họ không bao giờ vô danh trong lòng đồng chí đồng bào trong sử vàng dân tộc.”

                                                                                                      Nguyễn Văn Học