Nghiên cứu & Trao đổi

  • Nghiên cứu rủi ro, ảnh hưởng của sự cố môi trường phát sinh từ hoạt động vận chuyển hàng nguy hiểm trên đường thủy nội địa (Phần 1)

    Trong những năm gần đây, hoạt động vận chuyển hàng nguy hiểm (HNH) trên đường thủy nội địa (ĐTNĐ) tại Việt Nam đã có sự phát triển đáng kể; bên cạnh đó, hoạt động này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro, sự cố gây ô nhiễm môi trường. Mặc dù vậy, đến nay chưa có nghiên cứu đánh giá toàn diện về các sự cố môi trường phát sinh từ hoạt động vận chuyển HNH trên ĐTNĐ và ảnh hưởng của nó đối với môi trường. Có lẽ, đã đến lúc chúng ta phải nhận thức đúng đắn về tác hại của sự cố môi trường phát sinh từ hoạt động vận chuyển HNH trên ĐTNĐ, từ đó có cách thức ứng xử phù hợp nhằm tạo điều kiện cho phương thức vận tải này phát triển bền vững,…

    19/04/2022 Xem thêm
  • Khử carbon nhiên liệu hàng hải - Tương lai của vận tải biển

    Mục tiêu giảm thiểu tác động khí hậu của vận tải biển đòi hỏi nhiều giải pháp khác nhau. Để giảm phát thải khí nhà kính từ tàu biển, Tổ chức Hàng hải quốc tế (IMO) đã chuẩn bị một số đề xuất để đáp ứng và thực hiện các yêu cầu liên quan. IMO đã đưa ra các quy định trong Phụ lục VI về ngăn ngừa ô nhiễm không khí từ tàu của Công ước Quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu gây ra (MARPOL) với các mục tiêu giảm phát thải trong tương lai của vận tải biển quốc tế. Mục tiêu chính là đạt được sự trung hòa về khí hậu từ vận biển vào năm 2050. Một phương pháp đưa ra là khử carbon trong nhiên liệu hàng hải. Các loại nhiên liệu dự định sử dụng trong thời gian tới là nhiên liệu chuyển tiếp tạm thời, với nhiên liệu mục tiêu cuối cùng là hydro. Lượng phát thải carbon dioxide phụ thuộc vào thành phần hóa học của nhiên liệu, nhiệt trị thấp của nó và hiệu suất động cơ. Trong tương lai gần, việc sử dụng nhiên liệu có hàm lượng carbon thấp hơn là quá trình chuyển tiếp cho phép mở ra kỷ nguyên hydro. Sự phát triển công nghệ để đảm bảo sự phù hợp của các nhiên liệu tiềm năng với các yêu cầu đốt cháy trong động cơ diesel hàng hải và tuabin khí, cùng với khả năng lưu trữ và cung ứng các loại nhiên liệu này, là những rào cản chính khiến chúng bị hạn chế sử dụng. Hiệu suất của động cơ diesel hàng hải đạt giá trị khoảng 50%, trong khi của pin nhiên liệu là gần 100%. Có vẻ như hydro sẽ là nhiên liệu của tương lai, kể cả trong vận tải biển. Công dụng cơ bản của hydro là trong pin nhiên liệu với hiệu suất gần như gấp đôi so với động cơ đốt trong nhiệt hiện nay.

    18/03/2022 Xem thêm
  • Phân tích độ bền kết cấu du thuyền buồm hai thân (Phần 2)

    Phân tích độ bền kết cấu du thuyền buồm hai thân (Phần 2)

    14/02/2022 Xem thêm
  • Phân tích độ bền kết cấu du thuyền buồm hai thân (Phần 1)

    Trên thế giới, tàu buồm hai thân hiện đang được sử dụng là phương tiện vui chơi, giải trí và thể thao mặt nước. Tại Việt Nam, phong trào chơi thuyền buồm cũng có nhiều tín hiệu lạc quan, khi các doanh nghiệp trong nước đã và đang nhận được đơn hàng thiết kế, chế tạo chủng loại tàu này. Về phương diện thiết kế kết cấu, phân tích kết cấu tàu hai thân nói chung và tàu buồm hai thân nói riêng luôn được quan tâm, đặc biệt là kết cấu cầu dẫn và liên kết của hai thân với cầu dẫn. Việc áp dụng kỹ thuật phân tích kết cấu thân tàu bằng phương pháp phần tử hữu hạn được cho là có tính khả thi nhất trong giai đoạn hiện nay. Với kích thước tàu không lớn, mô hình phân tích có thể chạy trên các máy tính cá nhân đảm bảo độ tin cậy trong kết quả tính toán, sử dụng phần mềm ANSYS WORKBENCH. Bài báo này tập trung phân tích phần kết cấu hai thân và cầu dẫn trên cơ sở hướng dẫn của Đăng kiểm DnV- GL và trạng thái tải trọng phù hợp với Quy chuẩn quốc gia về Quy phạm phân cấp và đóng phương tiện thủy nội địa sửa đổi lần 2:2018 QCVN 72/2013 BGTVT. Kết quả đạt được giúp kỹ sư thiết kế kết cấu lựa chọn hợp lý về hình dáng tổng thể cũng như các liên kết cục bộ cho tàu buồm hai thân.

    19/01/2022 Xem thêm
  • Nghiên cứu thử nghiệm sử dụng nhiên liệu nhũ tương để giảm phát thải khí NOx trong động cơ diesel tàu thủy

    Bài báo giới thiệu kết quả nghiên cứu thử nghiệm sử dụng nhiên liệu nhũ tương được tạo thành từ hệ thống đồng thể hóa nước và nhiên liệu diesel cho động cơ diesel tàu thủy, nhằm giảm thiểu phát thải NOx trong khí thải của động cơ, đáp ứng Phụ lục VI Công ước Marpol 73/78 về bảo vệ môi trường biển của Tổ chức Hàng hải quốc tế (IMO).
    17/12/2021 Xem thêm
  • Đánh giá tác tác động của Chỉ số hiệu quả năng lượng đối với tàu hiện có và Chỉ thị cường độ các bon đối với đội tàu biển Việt Nam

    Lời nói đầu

    Thế giới đang phải đối mặt với sự đe dọa nghiêm trọng về biến đổi khí hậu gây ra do sự tập trung quá mức của khí nhà kính trong bầu khí quyển. Trước tình hình đó, tại kỳ họp thứ 72 của Ủy ban Bảo vệ môi trường biển (MEPC 72), Tổ chức Hàng hải quốc tế (IMO) đã thông qua Nghị quyết MEPC.304(72) về “Chiến lược ban đầu của IMO đối với việc giảm khí nhà kính từ tàu” với mục tiêu giảm lượng phát thải khí nhà kính từ tàu biển vào năm 2050 bằng 50% của năm 2008 và loại bỏ hoàn toàn càng sớm càng tốt trong Thế kỷ XXI này. Trên cơ sở của Chiến lược này, nhiều quy định mới về hiệu quả năng lượng của tàu đã được ban hành và thực thi như: Chỉ số thiết kế hiệu quả năng lượng (EEDI), Kế hoạch quản lý hiệu quả năng lượng (SEEMP). Gần đây nhất, sửa đổi, bổ sung đối với Phụ lục VI "Quy định về ngăn ngừa ô nhiễm không khí từ tàu" của Công ước Quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu gây ra (MARPOL) đã được MEPC thông qua tại kỳ họp thứ 76 (tháng 06 năm 2021) bởi Nghị quyết MEPC.328(76) và dự kiến có hiệu lực từ ngày 01 tháng 11 năm 2022. Trong đó, các quy định mới về Chỉ số hiệu quả năng lượng đối với tàu hiện có (Energy Efficiency Existing Ship Index (EEXI)) và Chỉ thị cường độ các bon (Carbon Intensity Indicator (CII)) được áp dụng đối với tất cả các tàu, bất kể ngày đóng, thuộc các nhóm công dụng được quy định trong Phụ lục VI với mức độ áp dụng phụ thuộc vào kích cỡ của tàu. Bài báo này tóm tắt nội dung các quy định mới vừa nêu và đánh giá tác động của chúng đến đội tàu biển Việt Nam hoạt động tuyến quốc tế thông qua ba nhóm công dụng phổ biến là tàu chở hàng tổng hợp, chở hàng rời và chở dầu/ hóa chất.

    19/11/2021 Xem thêm
  • Ứng dụng GIS xác định vị trí tiềm ẩn nguy cơ tai nạn giao thông đường thủy

    Vận tải đường thủy nội địa đóng vai trò chủ chốt trong hệ thống vận tải hàng hóa của của Việt Nam. Tuy nhiên, nhiều tuyến vận tải đường thủy có cầu và các công trình khác bắc qua có kích thước khoang thông thuyền hạn chế, nhiều đoạn cua gắt. Để đảm bảo phát triển vận tải đường thủy bền vững đòi hỏi phải đảm bảo an toàn giao thông cũng như hạn chế tình trạng tai nạn trên toàn tuyến đường thủy. Bài báo này nghiên cứu xác định các điểm tiềm ẩn tai nạn giao thông đối với trường hợp tuyến đường thủy có một trong các kích thước luồng thực tế nhỏ hơn trị số tối thiểu của cấp kỹ thuật dựa trên ứng dụng phân tích dữ liệu sử dụng Hệ thống thông tin địa lý (GIS).

    13/10/2021 Xem thêm
  • Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thẩm định thiết kế, đánh giá trạng thái kỹ thuật và hỗ trợ điều tra tai nạn, sự cố tàu biển

    Với đặc thù của lĩnh vực đăng kiểm tàu biển, từ năm 1984 - thời gian đất nước chuẩn bị mở cửa kinh tế và hội nhập quốc tế, Cục Đăng kiểm Việt Nam (ĐKVN) đã có các trao đổi kỹ thuật và đào tạo đăng kiểm viên với Tổ chức Đăng kiểm Vương quốc Anh (Lloyds Register - LR). Với mong muốn ứng dụng công nghệ thông tin vào trong công tác đăng kiểm, năm 1986, Cục ĐKVN được Đăng kiểm LR tặng bộ máy vi tính đầu tiên. Trên cơ sở trang thiết bị mới này, các cán bộ kỹ thuật của Cục ĐKVN bắt tay vào viết các phần mềm phục vụ cho công tác thẩm định thiết kế. Các phần mềm tự xây dựng này trong thời gian dài đã chứng tỏ được tính hiệu quả trong công tác thẩm định thiết kế, đáp ứng tốt nhu cầu của công nghiệp đóng tàu và vận tải biển trong những thập kỷ cuối của thế kỷ 20.

    15/09/2021 Xem thêm
  • Tính lượng khí thải từ đội tàu vận tải biển Việt Nam

    Vận tải biển với những ưu thế vượt trội về khối lượng và quãng đường vận chuyển đã và đang đóng vai trò quan trọng của nền kinh tế toàn cầu. Với hơn 90.000 tàu thương mại, có tổng trọng tải 1,86 tỷ DWT, vận chuyển hơn 80% khối lượng hрng hóa thương mại toàn cầu. Cùng với sự phát triển kinh tế đất nước, ngành hàng hải cũng đang có sự chuyển biến mạnh mẽ, phát triển đội tàu vận tải biển với 1.276 tàu, tổng trọng tải đạt 8,716 triệu DWT. Hoạt động hàng hải cũng phát thải khí độc hại gây ra các tác động tiêu cực đến môi trường và khí hậu toàn cầu. Tổ chức Hàng hải quốc tế (IMO) đã thực hiện nhiều nỗ lực để nhằm xây dựng khung pháp lý và kỹ thuật trong việc kiểm soát và giảm thiểu phát thải khí độc hại từ tàu biển như Phụ lục VI MARPOL 73/78, các hướng dẫn xây dựng khung pháp lý. Hơn nữa, Việt Nam đã cam kết thực hiện thỏa thuận Paris (COP24). Vì vậy, tính toán lượng khí thải độc hại từ tàu biển Việt Nam đang là đòi hỏi cấp thiết. Trong bài viết này, phương pháp tính sẽ được phân tích và lựa chọn để tính lượng khí thải từ tàu biển Việt Nam. Kết quả tính toán cho thấy, trong năm 2019 đội tàu vận tải biển Việt Nam đã phát thải 4,03 ngàn tấn CO2, 66,27 tấn NOx, 34,47 ngàn tấn SOx, 5,29 ngàn tấn PM. Kết quả này là nền tảng để nghiên cứu, xây dựng lộ trình quốc gia và kế hoạch hрnh động để kiểm soát khí thải từ đội tàu biển Việt Nam.
    12/08/2021 Xem thêm
  • Chiến lược pháp lý áp dụng với khả năng đi biển của tàu biển trong trường hợp tổn thất hàng hóa vận chuyển bằng đường biển

    Nghĩa vụ đảm bảo khả năng đi biển của tàu biển là một trong những nghĩa vụ căn bản của hợp đồng thuê tàu. Trải qua hơn 200 năm phát triển, lịch sử ngành công nghiệp hàng hải thế giới hiện đại đã ghi nhận sự hình thành và phát triển của các học thuyết về khả năng đi biển của tàu biển. Bài báo nhằm mục đích sáng tỏ giá trị pháp lý của khả năng đi biển của tàu biển đặc biệt trong trường hợp phát sinh các tranh chấp liên quan ra tổn thất hàng hóa. Cụ thể, những ́ nghĩa pháp lý trên cũng sẽ được phân tích dựa theo tiến trình phát triển của các học thuyết về khả năng đi biển của tàu biển. Chiến lược pháp lý của người vận chuyển, chủ hàng sẽ được làm sáng tỏ khi áp dụng pháp luật về khả năng đi biển của tàu biển trong trường hợp xảy ra tổn thất cho hàng hóa vận chuyển.

    09/07/2021 Xem thêm
  • Nâng cao nhận thức về an ninh mạng đối với thuyền viên Việt Nam

    Tàu biển thương mại ngày càng được trang bị rất nhiều thiết bị, hệ thống tự động hóa, công nghệ thông tin hiện đại dựa trên máy tính và internet. Điều này cũng đồng nghĩa với việc luôn có các mối đe dọa tấn công mạng, mà hậu quả có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngành hàng hải. Thuyền viên Việt Nam được trang bị khá hạn chế kiến thức về an ninh mạng. Nhiều thuyền viên vẫn chưa nhận thức đầy đủ về các mối nguy hiểm và hậu quả cùng các cách thức tấn công mạng nhằm vào tàu biển để có các biện pháp phòng tránh hiệu quả. Ngay cả trong nội dung những chương trình huấn luyện an ninh cho thuyền viên (có cấp chứng chỉ), cũng chưa đề cập đến vấn đề an ninh mạng và an ninh mạng đối với tàu biển. Với mục đích nâng cao nhận thức về an ninh mạng đối với thuyền viên Việt Nam, bài báo nêu lên các cách thức đang được sử dụng để tấn công mạng cũng như làm nổi bật đối tượng yếu nhất chính là thuyền viên và đề xuất các giải pháp nhằm loại bỏ, giảm thiểu các mối đe dọa hoặc tránh phạm lỗi của một cuộc tấn công mạng. 

    10/06/2021 Xem thêm
  • Nhiên liệu hàng hải thay thế cho tương lai

    Tàu thủy thải ra ít carbon dioxide (CO2) trên mỗi tấn-hải lý so với các phương tiện vận tải khác, nhưng vẫn còn nhiều khả năng để cải thiện cả về phát thải và chi phí nhiên liệu. Không tính đến các yếu tố môi trường, nhiên liệu chiếm khoảng 60% chi phí vận hành tàu, đây chính là động lực tài chính để những người quản lý tàu nâng cao hiệu quả sử dụng nhiên liệu của tàu.

    20/05/2021 Xem thêm
  • Xu hướng sử dụng nhiên liệu sạch cho ngành hàng hải từ khí Amoniac

    1. Khái niệm về khí Amoniac

    Amoniac (bắt nguồn từ từ tiếng Pháp ammoniac /amɔnjak/), còn được viết là a-mô-ni-ắc, là hợp chất của nitơ và hydro có công thức NH3 . Là một hiđrua nhị phân ổn định và hiđrua pnictogen đơn giản nhất, amoniac là một chất khí không màu, có mùi hăng đặc trưng. Nó là một chất thải nitơ phổ biến, đặc biệt là giữa các sinh vật sống dưới nước, và nó góp phần đáng kể vào nhu cầu dinh dưỡng của các sinh vật trên cạn bằng cách đóng vai trò là tiền chất của thực phẩm và phân bón. Amoniac, trực tiếp hoặc gián tiếp, cũng là một chất xây dựng để tổng hợp nhiều sản phẩm dược phẩm và được sử dụng trong nhiều sản phẩm tẩy rửa thương mại. Nó chủ yếu được thu thập bằng cách tổng hợp hạ mức của không khí và nước.

    22/04/2021 Xem thêm
  • Phân tích thống kê và xác định sơ bộ công suất các động cơ của tàu AHTS dựa trên dữ liệu đăng ký tàu

    Bài báo trình bày phương pháp phân tích thống kê và xác định sơ bộ công suất của động cơ chính, công suất của các động cơ lai máy phát điện trên tàu AHTS (Anchor Handling Tug Supply). Trước tiên, trong phần đặt vấn đề, tác giả giới thiệu tổng quan về tàu AHTS và mục tiêu nghiên cứu. Tiếp theo, để phục vụ cho việc phân tích, tác giả đưa ra nguồn tham chiếu và thống kê dữ liệu. Trên cơ sở phân tích các dữ liệu thống kê, tác giả đưa ra các công thức hồi quy tuyến tính mô tả mối quan hệ giữa công suất của động cơ chính và các động cơ lai máy phát điện với tham số mô-đun kích thước và lực kéo của tàu AHTS. Các công thức với độ tin cậy tương đối tốt, có thể tham khảo để xác định sơ bộ công suất của động cơ chính và công suất của các động cơ lai máy phát điện khi thiết kế sơ bộ tàu AHTS.

    19/03/2021 Xem thêm
  • Ước tính các tác động tới môi trường của tàu chở hàng bằng phương pháp đánh giá vòng đời sản phẩm

    Bài báo này giới thiệu và áp dụng phương pháp đánh giá vòng đời sản phẩm (LCA) cho đối tượng là tàu chở hàng. Vòng đời của tàu chở hàng được chia thành năm giai đoạn: khai thác và sản xuất vật liệu, đóng tàu, khai thác, bảo dưỡng và phá dỡ. Việc áp dụng và tính toán tuân theo với các hướng dẫn của tiêu chuẩn ISO 14040:2006. 12 chỉ số tác động tới môi trường của phương pháp CML2001 được sử dụng trong bài báo. Mô hình vòng đời và kết quả được xây dựng và thu thập dưới sự hỗ trợ của phần mềm GaBi. Kết quả bao gồm độ lớn các khí thải và độ lớn các chỉ số tác động trong các giai đoạn của vòng đời và trong toàn bộ vòng đời. Phương pháp LCA được đánh giá là mang lại cái nhìn toàn diện về tác động tới môi trường trong toàn bộ vòng đời của sản phẩm.

    16/12/2020 Xem thêm
  • Giải pháp “Sàn nâng – Đẩy nổi”: Hiệu quả hữu ích

    Nhiều nhà máy đóng tàu hiện nay có triền ngang phục vụ cho việc hạ thủy tàu đóng mới (xem bản vẽ kèm theo). Các triền ngang trên thường được xây dựng gồm các bộ phận chính như (1) Bãi lắp ráp tàu ở mặt bằng nhà máy có các đường ray, xe ray (3) phục vụ di chuyển tàu đóng mới tới triền ngang, cùng hệ tời kéo (6) giữ các xe triền khi hạ thủy tàu đóng mới. Triền (2) với  độ dốc nghiêng từ bãi lắp ráp xuống sâu dưới nước. Triền cũng có hệ ray nghiêng nối với hệ ray của bãi lắp ráp. Xe triền ngang hình tam giác (4), mặt ngang trên song song với bãi lắp ráp , mặt nghiêng theo mặt triền có lắp hệ bánh xe ray để hạ thủy tàu. Các xe triền có Puli nối cáp với các tời kéo (6) để di chuyển tàu hạ thủy. Tàu khi đóng xong được kéo từ bãi (1) sang triền (2) và xe triền ngang (4 ) sau đó hạ thủy bằng cách trượt xuống nước do tự trọng và hệ tời (6) giữ xe triền. Các triền ngang kiểu này chỉ có chức năng hạ thủy tàu đóng mới, không được dùng để đưa tàu từ dưới nước lên bờ để sửa chữa.

    18/11/2020 Xem thêm