Cơ hội của ngành đóng tàu và lợi thế cạnh tranh của Việt Nam

Ngành Công nghiệp tàu thuỷ giữ vị trí, vai trò quan trọng trong thực hiện chiến lược kinh tế biển và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tạo nên năng lực làm chủ phương tiện thủy và tạo ra phương tiện, các trang thiết bị kỹ thuật đáp ứng nhiệm vụ phát triển kinh tế biển, bảo vệ chủ quyền lãnh hải. Góp phần tạo nên thị trường cho các ngành công nghiệp khác của nền kinh tế đất nước. Là ngành có sức lan tỏa rộng nhất trong Chiến lược phát triển kinh tế biển của mỗi quốc gia biển. Với những thay đổi trong những năm gần đây đã tạo ra nhiều cơ hội cho ngành đóng tàu. Việt Nam có cơ hội, lợi thế cạnh tranh gì?

Bối cảnh, xu hướng thế giới tác động đến ngành đóng tàu

Giai đoạn 1999 - 2007: Ngành Công nghiệp đóng tàu của thế giới phát triển rất mạnh với tổng trọng tải đóng mới bằng 51% tổng tải trọng của toàn bộ đội tàu đang hoạt động trên thế giới.

Giai đoạn 2008 - 2017: Ngành vận tải biển thế giới bị đình đốn, công nghiệp đóng tàu rơi vào suy thoái. Các nước như Trung Quốc, Hàn Quốc,… đều có chính sách hỗ trợ ngành vượt qua khó khăn.

Giai đoạn 2018 - 2021: Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung và dịch Covid-19 làm chậm đà phục hồi của ngành Công nghiệp đóng tàu.

Giai đoạn 2022 - nay: Xung đột giữa Nga – Ukraine, Hamas – Israel gia tăng, tạo ra ảnh hưởng xấu tới vận tải biển cũng như thị trường đóng tàu.

Chuyển dịch và xu hướng của ngành đóng tàu

Trong thập niên 80 - 90 của thế kỉ 20, ngành Công nghiệp tàu thuỷ thế giới chứng kiến sự chuyển dịch mạnh mẽ từ Châu Âu sang Châu Á, đặc biệt là các nước: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản. Năm 2023, 3 quốc gia này chiếm đến 85% tổng số đơn đặt hàng tàu mới.

Bên cạnh đó, đóng tàu tại châu Âu sụt giảm, chỉ chiếm 7% tổng đơn đặt hàng trên toàn cầu năm 2023, các nhà máy chủ yếu tập trung vào phân khúc tàu du lịch, du thuyền sang trọng và tàu quân sự. Thị trường chủ lực như tàu container và tàu hàng rời bị Trung Quốc và Hàn Quốc chiếm lĩnh.

Chuyển đổi xanh và nhiên liệu thay thế đang là xu hướng của ngành đóng tàu với việc sử dụng tàu chạy bằng LNG (khí tự nhiên hoá lỏng), dùng Methanol, amoniac, hydrogen thay thế nhiên liệu hóa thạch hay sử dụng pin nhiên liệu (Fuel Cell) và điện khí hóa;… Tuy nhiên, qua khảo sát, đánh giá năng lực của một số cơ sở đóng và sửa chữa tàu ở nước ta chưa có đủ nguồn lực để thực hiện các dự án tàu xanh sử dụng nhiên liệu thay thế.

Tự động hoá và số hoá cũng góp phần lớn vào việc chuyển dịch của ngành đóng tàu bằng việc sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI), tàu tự hành (Một số dự án như Yara Birkeland (Na Uy) đã thử nghiệm tàu không người lái), cảm biến IoT;…

Xu hướng về chuyển đổi năng lượng xanh và nhiên liệu thay thế không thể thiếu vật liệu và thiết kế tàu tiên tiến, đóng tàu mô-đun, tự động hóa sản xuất giúp giảm thời gian đóng tàu, giảm trọng lượng, tăng hiệu suất, tiết kiệm nhiên liệu.

Lợi thế cạnh tranh và cơ hội của Việt Nam trong phát triển Công nghiệp tàu thuỷ

Việt Nam có đường bờ biển dài, vị trí địa lý thuận lợi cho sự phát triển của ngành vận tải biển, đóng tàu, phục vụ cả nhu cầu nội địa và xuất khẩu. Chính phủ Việt Nam đã và đang có nhiều chính sách hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp đóng tàu bao gồm việc thúc đẩy liên kết với các đối tác quốc tế, khuyến khích đầu tư về cơ sở hạ tầng, hỗ trợ hiện đại hóa công nghệ. Công nghiệp tàu thủy Việt Nam đã đóng được hầu hết các gam tàu tổng hợp, tàu hàng rời, tàu dầu, tàu chở ô tô; xây dựng được một số cơ sở công nghiệp phụ trợ hỗ trợ ngành công nghiệp tàu thủy; thiết kế công nghệ cho một số gam tàu hàng rời.

Nền kinh tế đang phát triển và hội nhập quốc tế sâu rộng, nhu cầu về vận tải biển của Việt Nam không ngừng tăng cao, xuất khẩu hàng hóa qua đường biển chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu.

Đầu tư nước ngoài vào ngành Công nghiệp đóng tàu đang gia tăng, đặc biệt từ các nước có công nghệ tiên tiến, tạo cơ hội học hỏi kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực khai thác của doanh nghiệp đóng tàu nội địa thông qua cơ hội hợp tác và chuyển giao công nghệ.

Việt Nam có nguồn lao động dồi dào, trẻ, có kỹ năng, dễ đào tạo chi phí lao động thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực, tạo lợi thế cạnh tranh về giá thành sản phẩm.

Tính đến tháng 12/2024, tổng số tàu biển, phương tiện đăng ký trong Sổ đăng ký tàu biển quốc gia Việt Nam là 1.490.

Tổng GT

(triệu)

Tổng DWT

(Triệu tấn)

Tổng số tàu

 

6.8

11.367

1.430

Đội tàu biển

6.2

10.5

956

Tàu vận tải

 

Theo quy định của Tổ chức hàng hải quốc tế IMO về bắt buộc chuyển đổi năng lượng sạch theo (COP 26) là nhân tố thúc đẩy sự tăng trưởng của ngành công nghiệp đóng tàu trong thời gian tới. Đây cũng là điều kiện để sản xuất thế hệ tàu mới, hiện đại thay thế cho đội tàu cũ đã già.

Loại tàu vận tải

Số lượng tàu

Tuổi bình quân

Tàu chở hàng rời, tổng hợp

660

17.6

Tàu chở container

43

18.5

Tàu chở dầu, hoá chất

164

18.8

Tàu chở khí hoá lỏng

21

24.2

Tàu chở khách

66

9.5

Tàu vận tải khác

2

 

Quy mô thị trường đóng tàu thế giới đã tăng trưởng mạnh mẽ trong những năm gần đây thể hiện qua mức tăng trưởng đơn hàng đóng mới tàu. Dự báo giai đoạn 2024 - 2028, quy mô thị trường đóng tàu dự kiến sẽ tăng khoảng 22,1 tỷ USD với tốc độ tăng trưởng bình quân là 3,95%/năm và sẽ dự kiến đạt khoảng 195 tỷ USD vào năm 2030. Đây cũng là cơ hội cho ngành Công nghiệp tàu thủy Việt Nam nắm bắt và triển khai.

Trong giai đoạn 2023 – 2030, với sự phát triển của thương mại toàn cầu, nhu cầu vận tải biển của Việt Nam cũng được dự báo sẽ tăng trưởng mạnh mẽ khoảng 10%/năm, với mục tiêu tăng thị phần vận tải hàng xuất nhập khẩu cũng như đảm nhận 100% nhu cầu vận tải nội địa.

Định hướng giai đoạn đến năm 2030 đội tàu biển Việt Nam được cơ cấu lại và phát triển khoảng 1.600 - 1750 chiếc với tổng trọng tải đạt từ 17 - 18 triệu tấn để phát triển kinh tế biển (trong dó đội tàu vận tải biển khoảng 1.200 chiếc với tổng trọng tải khoảng 13 - 14 triệu tấn).

Dự báo tổng nhu cầu đóng mới bổ sung, thay thế đội tàu vận tải biển Việt Nam giai đoạn từ nay đến năm 2030 khoảng 4 - 5 triệu DWT, bình quân khoảng 0,7 - 0,8 triệu DWT/năm (bao gồm cả số lượng tàu đóng mới và thay thế đội tàu cũ).

Việt Nam có hệ thống nhà máy trải dài đất nước - năng lực sản xuất đa dạng, đáp ứng nhu cầu trong nước và quốc tế (trong đó SBIC, PVN chiếm phần lớn). Tính đến hết năm 2024, Việt Nam có 88 doanh nghiệp đóng tàu biển, 411 cơ sở đóng phương tiện thuỷ nội địa, trong đó 120 doanh nghiệp đóng, sửa chữa tàu  trên 1.000 tấn. Tổng năng lực đóng mới 3,5 triệu DWT (bao gồm liên doanh với Hyundai).  Các ản phẩm có chất lượng cao, đa dạng (tàu công suất lớn, tàu chuyên dụng, tàu cao tốc, tàu công nghệ cao,…) đáp ứng nhu cầu trong nước và quốc tế, khẳng định vị thế của Việt Nam trên thị trường quốc tế. Đây là những năng lực mà ngành Công nghiệp tàu thủy Việt Nam cần tận dụng và phát huy hiệu quả, kịp thời nắm bắt cơ hội, phát huy lợi thế.

Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn luôn tích cực tham gia, hội nhập cùng thị trường quốc tế. Tuy nhiên, thị phần xuất khẩu có phần hạn chế do chưa có ngành công nghiệp hỗ trợ và chưa làm chủ được khâu thiết kế kĩ thuật, thiết kế công nghệ.

Ngành đóng tàu đã khẳng định sứ mệnh, tầm quan trọng trong sự phát triển kinh tế đất nước, đảm bảo an ninh quốc phòng cũng như tham gia sâu vào quá trình hội nhập, hợp tác quốc tế.

Xu hướng chuyển dịch của ngành đóng tàu từ Châu Âu sang châu Á là cơ hội rất lớn cho Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam, để nắm bắt được cơ hội đó, chúng ta cần tận dụng và phát huy những lợi thế sẵn có: Ngành đóng tàu phát triển nhanh chóng; Vị trí chiến lược và chi phí lao động cạnh tranh; Chuyển giao công nghệ và đầu tư nước ngoài;…

Việc xây dựng và phát triển kinh tế biển (trong đó có ngành đóng tàu) đã trở thành nhiệm vụ chiến lược trọng tâm hàng đầu của mỗi quốc gia có biển, đặc biệt với những quốc gia có lợi thế như Việt Nam. Chúng ta phải tiếp tục phấn đấu khai thác lợi thế, tiềm năng này để phát triển kinh tế quốc gia trong Kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy (SBIC) là đơn vị đóng tàu hàng đầu Việt Nam với các nhà máy trải dài khắp ba miền Bắc, Trung, Nam với các sản phẩm tàu đóng đa dạng: tàu hàng rời, tàu container, tàu dầu, tàu chở ô tô, kho nổi, tàu hoá chất, tàu khách,… SBIC có năng lực đóng và sửa chữa tàu lớn (có thể hạ thuỷ tàu lên tới 70,000 DWT). Sản lượng đóng tàu 1,3 triệu DWT/năm (2018 - 2023), chiếm phần lớn trong sản lượng đóng tàu của Việt Nam.

                                         TS Phạm Hoài Chung

 Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng công ty Công nghiệp tàu thuỷ