Tháo gỡ cơ chế chính sách, tạo đà thúc đẩy khôi phục và phát triển ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hải Phòng
VỊ THẾ VIỆT NAM TRÊN BẢN ĐỒ ĐÓNG TÀU THẾ GIỚI
Là quốc gia có bờ biển dài trên 3.200 km và vùng đặc quyền kinh tế trên biển Đông rộng hơn 1 triệu km2, Việt Nam nằm trong nhóm nước có chỉ số cao nhất về độ dài của bờ biển và nằm trên tuyến hàng hải nhộn nhịp thứ hai thế giới. Chiến lược biển Việt Nam đã xác định kinh tế biển là động lực để dẫn dắt, thúc đẩy ngành và các địa phương ven biển phát triển; tạo sự chuyển biến cơ bản và toàn diện về cơ cấu kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Một trong những ngành, lĩnh vực quan trọng để thực hiện Chiến lược biển Việt Nam là phát triển công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu biển.
Trong những năm gần đây, ngành công nghiệp đóng tàu thế giới bắt đầu hồi phục đáng kể. Theo báo cáo Mineral Commodity Summaries do Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ (USGS) công bố, dựa trên các dữ liệu công bố năm 2022, ngành công nghiệp đóng tàu thế giới đang tiếp tục có sự chuyển dịch sang khu vực châu Á, trong đó Việt Nam được xếp ở vị trí thứ 6 thế giới, chiếm tỷ lệ 0,80% tổng sản lượng đóng tàu toàn cầu và đứng đầu khu vực Đông Nam Á. Còn Trung Quốc đứng đầu thế giới với tỷ lệ áp đảo 46,59%, tiếp sau là Hàn Quốc (29,24%), Nhật Bản (17,25%), Italy (1,32%) và Pháp (1,07%), vị trí thứ 7 thuộc về Philippines với 0,71%. Singapore đứng ở vị trí thứ 11 với 0,28%. Như vậy, 3 vị trí hàng đầu thế giới là Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản đã chiếm 93,35% sản lượng đóng tàu thế giới.
Còn theo UNTACD, thống kê 5 năm từ 2019 - 2024, sản lượng đóng tàu của Việt Nam đạt trung bình 485.677 tấn/năm, nằm trong top 6 thế giới, trên cả một số nước công nghiệp phát triển như Đức, Pháp, Nga và Mỹ. Việc lọt vào danh sách top 6 nước đóng tàu lớn nhất trên thế giới là minh chứng rõ nét cho thấy năng lực, khả năng phục hồi và tiềm năng phát triển của ngành đóng tàu trong nước. Dự báo thị trường đóng tàu thế giới giai đoạn 2025 - 2030 sẽ tăng trưởng mạnh, đạt 230 tỷ USD vào năm 2028.
Như vậy, từ đánh giá của các tổ chức quốc tế nêu trên cho thấy mặc dù gặp rất nhiều khó khăn, thách thức kể từ sau cuộc khủng hoảng của ngành đóng tàu Việt Nam bắt đầu từ năm 2009, từ năm 2020 đến nay, trong khi nhiều lĩnh vực kinh tế chịu ảnh hưởng lớn từ đại dịch Covid-19, ngành đóng tàu của Việt Nam với khoảng 120 nhà máy đóng tàu trên cả nước đã từng bước phục hồi và phát triển, khẳng định lại vị thế trên thương trường quốc tế.
Sản lượng đóng tàu thương mại bình quân hàng năm (tấn) của 15 nước trong top hàng đầu thế giới về đóng tàu
giai đoạn 2019 - 2024 (Nguồn: Ships Build by Country of Building Annual – UNCTAD STAT)
THỰC TRẠNG VÀ TRIỂN VỌNG CỦA NGÀNH ĐÓNG TÀU HẢI PHÒNG
Hải Phòng là thành phố ven biển với 120 km bờ biển và vùng biển rộng hơn 4000 km2 cùng với hệ thống các sông lớn, kết nối giao thông thủy, bộ hết sức thuận lợi. Công nghiệp đóng tàu có thể nói là một trong những ngành “gốc”, thế mạnh của Hải Phòng với bề dày truyền thống hơn 100 năm hình thành, xây dựng và phát triển. Vào những năm đầu thế kỷ 21, Hải Phòng đã có hơn 40 cơ sở đóng tàu, là trung tâm đóng và sửa chữa tàu lớn nhất cả nước với nhiều tên tuổi lớn như các nhà máy đóng tàu: Nam Triệu, Phà Rừng, Bạch Đằng, Bến Kiền, Sông Cấm,… Lực lượng lao động lành nghề làm việc trong khu vực đóng và sửa chữa tàu cả trực tiếp và gián tiếp thời kỳ cao điểm lên tới hàng chục ngàn người. Năng lực đóng mới tàu biển có khả năng đóng mới tàu trên 53.000 tấn. Riêng Nhà máy Đóng tàu Nam Triệu có khả năng đóng mới tàu đển 100.000 tấn; kho nổi chứa xuất dầu tới 150.000 tấn. Năng lực sửa chữa tàu có thể phục hồi sửa chữa tàu 160.000 tấn. Giai đoạn trước 2008, Nhà máy đóng tàu Nam Triệu đã đóng hàng loạt tàu lớn 53.000 tấn xuất khẩu cho các chủ tàu nước ngoài.
Trải qua thời kỳ khủng hoảng của ngành đóng tàu cả nước (kể từ 2008), đến nay, các cơ sở đóng mới sửa chữa tàu biển của Hải Phòng đã có sự phục hồi và từng bước phát triển, sản lượng đóng tàu tăng, đảm bảo việc làm và thu nhập tốt cho người lao động với mức lương bình quân 12 - 14 triệu đồng/tháng, khẳng định vai trò, vị trí và năng lực cạnh tranh trong và ngoài nước.
Qua khảo sát cho thấy, một số nhà máy đã liên tục nhận được các đơn hàng đóng mới tàu cho nước ngoài và các doanh nghiệp trong nước có giá trị cao, công việc đã đảm bảo đến hết 2026 và đang tiếp tục đàm phán để tiếp nhận đơn hàng cho giai đoạn đến 2028. Nhà máy Đóng tàu Nam Triệu hoàn thành đóng mới và hạ thủy tàu hàng rời 65.000DWT lớn nhất Việt Nam trong tháng 5/2024 và tiếp tục đặt ky cho tàu thứ hai. Nhà máy Đóng tàu Phà Rừng đóng mới và hạ thủy tàu dầu - hóa chất 13.000DWT đầu tiên trong loạt 8 tàu cho đối tác Hàn Quốc trong đầu năm 2024. Nhà máy của Công ty TNHH MTV 189 đóng mới và hạ thủy trong năm 2022 siêu tàu cao tốc một thân lớn nhất Việt Nam phục vụ du lịch tuyến thành phố Hồ Chí Minh - Côn Đảo. Bên cạnh đó là sự đóng góp các sản phẩm tàu đóng mới tính năng cao, công nghệ cao đến từ các nhà máy đóng tàu có yếu tố nước ngoài như Damen Sông Cấm. Riêng Công ty Cổ phần Đóng tàu Sông Cấm những năm gần đây trên đà khởi sắc, lợi nhuận năm sau đều cao hơn năm trước, là một trong những doanh nghiệp hiếm hoi không vay nợ tài chính.
Một số doanh nghiệp đóng tàu mới ra đời như: Nhà máy Đóng tàu Thái Bình Dương đã đóng được tàu 30.000 tấn, đây là con tàu “thuần Việt” đầu tiên bởi vì từ đơn vị tư vấn thiết kế đến chủ tàu, công ty đóng tàu đều là doanh nghiệp Việt. Nhà máy Đóng tàu Đông Á cũng đã có những đơn hàng đóng tàu nhỏ, sà lan,…
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp đóng tàu quân đội như Hồng Hà, Z189,… đã đóng được nhiều lớp tàu hiện đại như: Tàu tên lửa tấn công nhanh 500 T, tàu cảnh sát biển đa năng, tàu tìm kiếm cứu nạn, tàu tuần tra, với khoảng 50 chủng loại, xuất khẩu nhiều nước trên thế giới. Sự phát triển của các đơn vị đóng tàu quốc phòng góp phần quan trọng trong việc nâng cao năng lực tự chủ, tiết kiệm chi phí so với mua sắm tàu của nước ngoài, đồng thời tăng cường năng lực thực thi trên biển, góp phần xây dựng lực lượng quân đội chính quy, hiện đại.
Hải Phòng đang có những doanh nghiệp lớn của ngành đóng tàu Việt Nam, nguồn nhân lực có kinh nghiệm và kỹ thuật cao, có sẵn cơ sở vật chất, hạ tầng đảm bảo đủ năng lực để đóng được những con tàu hiện đại của thế giới. Nhiều nhà máy đóng tàu đã tạo lập được uy tín, thương hiệu quốc tế, thậm chí Nhà máy đóng tàu Phà Rừng thuộc diện phải thực hiện phá sản để tái cơ cấu, không đủ điều kiện huy động vốn vay nhưng vẫn được đối tác Hàn Quốc tin tưởng ký hợp đồng bảo lãnh, cung cấp tín dụng để mua sắm vật tư, thiết bị đóng mới các tàu cho đối tác. Ngoài ra, thành phố cũng có các cơ sở đào tạo lớn để cấp nhân lực cho ngành đóng tàu, gồm có trường Đại học Hàng hải Việt Nam và hệ thống các trường cao đẳng, trung cấp nghề trên địa bàn. Số lượng các chỉ tiêu đầu vào của kỹ sư, học viên nghề các ngành đóng tàu và phụ trợ tăng lên trong giai đoạn vừa qua đánh dấu sự phát triển trở lại của ngành đóng tàu Hải Phòng.
Tuy nhiên, việc phát triển ngành sửa chữa, đóng mới tàu biển đang gặp rất nhiều khó khăn, thách thức, đó là:
- Các doanh nghiệp còn nợ ngân hàng với giá trị lớn, khó có khả năng chi trả, phải tiến hành giải thể. Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, Chính phủ đã ra Nghị quyết về phá sản Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy (SBIC) bắt đầu từ quý I/2024, trong đó Hải Phòng có 3 công ty là Đóng tàu Sông Cấm, Phà Rừng và Bạch Đằng.
- Chưa có cơ chế chính sách cụ thể để khôi phục và phát triển ngành đóng tàu. Các nhà máy đóng tàu hầu như không được ngân hàng hỗ trợ vốn vay do còn các khoản nợ trước để lại. Đây là khó khăn và cũng là thách thức lớn nhất hiện nay của khối doanh nghiệp đóng tàu.
- Công nghiệp hỗ trợ cho ngành đóng tàu chưa phát triển, mới chỉ dừng lại ở việc cung ứng một số vật tư tiêu hao; chưa có vật liệu thép chuyên dùng, máy móc phục vụ đóng mới, sửa chữa tàu biển do nhà sản xuất trong nước cung cấp.
- Nhân lực cho ngành đóng tàu đang là nỗi lo của nhiều doanh nghiệp so với nhu cầu thực tế, đặc biệt là với cán bộ quản lý, kỹ sư và công nhân kỹ thuật có trình độ cao. Số lượng kỹ sư đóng tàu được đào tạo hàng năm chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn. Năng lực tự thiết kế sản phẩm tàu còn rất hạn chế.
- Bão số 3 vừa qua đã nhiều gây thiệt hại cho các nhà máy đóng tàu: Nam Triệu thiệt hại khoảng 50 tỷ đồng; Phà Rừng khoảng 37 tỷ đồng,… Ngoài ra, các khoản nợ bảo hiểm xã hội, nợ tiền thuế đất đang là một gánh nặng cho các doanh nghiệp đóng tàu.
- Ngoài ra một số doanh nghiệp như Công ty Đóng tàu Thái Bình Dương còn vướng mắc về mặt bằng đang rất cấn được tháo gỡ.
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1516/QĐ-TTg ngày 02/12/2023 phê duyệt Quy hoạch thành phố Hải Phòng thời kỳ 2021-2023, tầm nhìn đến năm 2050, trong đó Quyết định đã yêu cầu tập trung “Khôi phục lại một số ngành công nghiệp trước đây vốn là thế mạnh của Hải Phòng, đặc biệt là đóng mới và sửa chữa tàu biển”. Để hiện thực hóa các mục tiêu, nhiệm vụ nêu trên, phát huy tiềm năng, thế mạnh về biển, đưa công nghiệp đóng tàu thành ngành công nghiệp mũi nhọn, phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đề nghị cần có các giải pháp sau:
1. Cần đánh giá đúng vai trò và tầm quan trọng của ngành công nghiệp đóng tàu trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự cường, đảm bảo quốc phòng an ninh. Cần coi đây là ngành công nghiệp xương sống, đặc thù, có tính dẫn dắt, lan tỏa. Do vậy, cần sớm có đề án khôi phục và phát triển ngành đóng tàu và trên cơ sở đó, điều chỉnh quy hoạch phát triển ngành công nghiệp đóng tàu đến 2040, tầm nhìn đến năm 2050 theo hướng thay thế Quyết định số 2290/QĐ-TTg ngày 27/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp tàu thủy Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Trong đó, tận dụng các cơ hội của ngành đóng tàu thế giới mang lại để từng bước hiện đại hóa ngành đóng tàu, hình thành “hệ sinh thái của ngành đóng tàu” nhằm nâng cao hiệu quả, kết nối các chuỗi cung ứng, chú trọng đóng các loại tàu phù hợp với năng lực hiện có, đảm bảo các yêu cầu về tiêu chuẩn môi trường, giảm khí thải, tiết kiệm năng lượng, ứng dụng mạnh các công nghệ tự động hóa, công nghệ thông tin, chuyển đổi số.
2. Cần sớm nghiên cứu xây dựng cơ chế chính sách mang tính đột phá, nhằm ưu tiên tạo điều kiện thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp đóng tàu, tạo xung lực cho nhiều ngành công nghiệp khác như luyện kim, cơ khí, điện, điện tử cùng phát triển và các ngành công nghiệp phụ trợ phục cụ cho ngánh đóng tàu.
Trước mắt cần có các chính sách hỗ trợ về tài chính như ưu đãi vốn vay cho các doanh nghiệp đóng tàu, giảm tiền thuê đất cho các doanh nghiệp đóng tàu; ghi thu ghi chi các khoản nợ nhà nước, do nhà nước cấp; xem xét khoanh nợ quá hạn, không có khả năng chi trả của các doanh nghiệp; chỉ nên giải thể những đơn vị không còn khả năng, không có đơn hàng, không có triển vọng phát triển. Tháo gỡ khó khăn về mặt bằng cho doanh nghiệp.
3. Khuyến khích các doanh nghiệp vận tải trong và ngoài nước mạnh dạn đầu tư sử dụng tàu đóng trong nước thay vì phải đi mua tàu nước ngoài vừa tiết kiệm ngoại tệ, vừa hỗ trợ ngành đóng tàu trong nước phục hồi và phát triển.
4. Có cơ chế, chính sách hỗ trợ công tác đào tạo nguồn nhân lực đóng tàu, thu hút sinh viên vào học các ngành thiết kế tàu,… Khuyến khích phát triển nghiên cứu khoa học liên quan đến công nghiệp đóng tàu.
5. Về phía thành phố Hải Phòng
- Cần nghiên cứu quy hoạch khu vực công nghiệp đóng tàu tập trung nhằm tận dụng lợi thế về kết nối sông, biển, khắc phục tình trạng các doanh nghiệp đóng tàu nằm rải rác, manh mún, chắp và không đồng bộ như hiện nay; đồng thời tháo gỡ vướng mắc về mặt bằng sản xuất cho doanh nghiệp;
- Hải Phòng nên tiên phong trong việc tổ chức các sự kiện hàng hải, logistics và đóng tàu quốc tế nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực đóng tàu.
- Khuyến khích thành lập hiệp hội các doanh nghiệp đóng tàu nhằm chia sẻ thông tin, kết nối, hỗ trợ các doanh nghiệp đóng tàu tháo gỡ khó khăn, bạn hàng,…
LỜI KẾT
Đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới – Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Mục tiêu mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra là đến năm 2030, Việt Nam sẽ cơ bản hoàn thành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, trở thành nước phát triển có thu nhập cao. Đối với Hải Phòng, Nghị quyết số 45-NQ/TW của Bộ Chính trị đã đề ra mục tiêu: Hải Phòng trở thành thành phố công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2025, thành phố công nghiệp phát triển hiện đại, văn minh, bền vững tầm cỡ khu vực Đông Nam Á vào năm 2030; tầm nhìn đến năm 2045 Hải Phòng ngang tầm với các thành phố hàng đầu châu Á và thế giới. Thời gian để thực hiện thành công những mục tiêu trên là không dài trong bối cảnh thế giới và nhất là khoa học và công nghệ đang có những đổi thay từng giờ, từng phút. Ngành công nghiệp đóng tàu của Việt Nam nói chung và Hải Phòng nói riêng có một sứ mệnh rất quan trọng để góp phần vào thực hiện thắng lợi những mục tiêu mà Đảng đã đề ra. Do vậy, ngay từ bây giờ rất cần có những chủ trương, cơ chế, chính sách và cách làm đặc biệt nhằm tạo “cú hích” hỗ trợ tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn trong quá khứ, tạo đà cho các doanh nghiệp đóng tàu nhanh chóng nắm bắt được những cơ hội của ngành đóng tàu và hàng hải thế giới, bứt phá vươn lên, xứng đáng với niềm tin và kỳ vọng của nhân dân, đất nước.
TS Phạm Hữu Thư
Liên hiệp các Hội KH&KT thành phố Hải Phòng
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quyết định số 2290/QĐ-TTg ngày 27/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ Về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp tàu thủy Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030
2. Quyết định số 1901/QĐ-TTg ngày 22/10/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch hành động phát triển ngành công nghiệp đóng tàu thực hiện chiến lược công nghiệp hóa của Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác Việt Nam - Nhật Bản hướng đến năm 2020, tầm nhìn 2030
3. Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
4. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
5. Nghị quyết Đại hội XVI Đảng bộ thành phố Hải Phòng (nhiệm kỳ 2020 - 2025)
6. Quyết định số 1516/QĐ-TTg ngày 02/12/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch thành phố Hải Phòng thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Bài viết liên quan
- Xu hướng phát triển ngành đóng tàu thương mại trong tương lai (28/03/2025)
- Xu thế phát triển ngành công nghiệp đóng tàu và phát triển đội tàu trên thế giới trong kỷ nguyên mới (06/12/2024)
- Nghiên cứu Quy định Công ước Luân Đôn 1972 và Nghị định thư 1996, kinh nghiệm cho Việt Nam (Phần 2) (15/11/2024)
- Nghiên cứu Quy định Công ước Luân Đôn 1972 và Nghị định thư 1996, kinh nghiệm cho Việt Nam (Phần 1) (15/11/2024)
- Nghiên cứu phát triển các bản tin ứng dụng đặc biệt của hệ thống nhận dạng tự động trong cảnh báo nguy cơ đâm va tàu thuyền (30/10/2024)
- Đánh giá thực thi Phụ lục VI Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm từ tàu thuyền tại Việt Nam (Phần 2) (10/10/2024)
- Đánh giá thực thi Phụ lục VI Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm từ tàu thuyền tại Việt Nam (Phần 1) (26/08/2024)
- Điều tra các nhân tố tác động đến hoạt động chuyển đổi số trong các doanh nghiệp logistics tại khu vực Hải Phòng (19/07/2024)
- Nghiên cứu một số vấn đề pháp lý về tàu mặt nước tự vận hành và tác động tới quy định của quy tắc phòng ngừa đâm va tàu thuyền trên biển (22/05/2024)
- Phân tích tác động tổng thể của chuyển đổi số đến hoạt động của tàu biển (23/04/2024)