Một nhà nho đời Tự Đức đã chế ra tàu ngầm

Trong một số trước đây, bạn Đào Trinh Nhất  đã nói ông Vũ Duy Thanh tục gọi là cụ Trạng Bồng hay Bảng Bồng là người biết mỏ than Hongay trước nhất. Trong bài Đào quân có nhắc lại cả lời cụ Vũ Duy Thanh tâu vua nên tổ chức hải quân để phòng ngự mặt biển. Cụ Vũ lại còn nghĩ phỏng theo kiểu mẫu tàu chiến nước Thái Tây mà chế ra một thứ chiến thuyền. Thứ chiến thuyền đó, cụ Vũ Duy Thanh đặt tên là Thủy xa mộc thành.

Thủy xa ấy vận chuyển bằng máy móc có thể lặn xuống đáy nước, nổi lên mặt nước tùy ý, trên có một cái chòi làm hình bát quái, thành rất dầy làm toàn bằng gỗ mềm, tám mặt có đặt 8 khẩu súng thần công. Chẳng hiểu máy móc thủy xa là do cụ sáng chế ra hay là mua của nước ngoài chế sẵn lắp vào, nhưng ta cũng phải nhận rằng có lẽ cụ là người Việt Nam thứ nhất đã nghĩ tới việc chế tạo tàu ngầm, ở thời tầu ngầm ngay ở Âu Mỹ cũng còn là rất hiếm. Vì kiểu thủy xa mộc tả ra đại khái như trên, chính là một kiểu tàu ngầm

Kiểu tàu ngầm của cụ Vũ Duy Thanh không phải chỉ là một kiểu chiến thuyền phác họa trên giấy mà thôi, chính cụ Vũ đã thân bỏ tiền ra mua gỗ sắt chế tại ra một chiếc và đã cho chạy để thí nghiệm có đông đủ các viên quốc tử, tương tự như sinh viên cao đẳng ngày nay đến chứng kiến, vì bấy giờ cụ Bảng đang sung chức Tế tửu Quốc tử giám, tựa như Đốc học trường Cao đẳng vậy. Kết quả cuộc thí nghiệm đó hình như rất mĩ mãn, và cụ Bảng đã thảo sớ tâu vua về việc đó, cùng với 7 phương sách cải cách chính trị, quân sự định dâng lên vua. Nhưng chưa kịp dâng vua thì cụ đã mất. Sau này các học quan quốc tử giám thấy bản thảo có vì cụ dân lên vua, vua Tự Đức ngữ lãm rồi châu hê “Giao cho con cháu giữ bản thảo để sau lục dụng” chứ không sai đem thực hành, thật là một điều rất đáng tiếc cho vận nước ta hồi đó.

Nhà thờ cụ Bảng nhãn Vũ Duy Thanh tại Ninh Bình

Chẳng biết kiểu tàu ngầm thủ xa mộc thành của cụ Bảng thí nghiệm có thành không thật không, nhưng việc cụ sáng nghĩ ra tàu ngầm, thì ta phải tin là chuyện có thật, vì trong bài văn bia đặt trên mộ cụ, do cụ Đông Các Vũ Phạm Khải soạn, kê lịch sử và sự nghiệp cụ Bảng, có nói đến việc chế thủy xa mộc thành. Chẳng những riêng cụ Vũ Phạm Khải là người soạn văn bia mộ chí, mà hầu hết các bực khoa hoạn trong nước thời bấy giờ cũng đều công nhận việc sáng chế của Cụ. Các bạn đồng khoa với cụ, trong câu đối viếng cụ, có nhắc đến việc đó, câu đối này, ngày nay con cháu cụ còn chép trong gia phả, nguyên văn chép ra như sau:

“Đồng bảng vẫn tôn ông, phẩm hạnh cao chí khí lại càng cao, hơi gần tắt thủy xa mộc thành còn băn khoăn bâu bầy dậy sách

Người thế sao đến thế, con cả mất, ông cũng theo luôn mất nay hộ tống con thơ vợ góa, sự đời chi lắm nỗi chua cay”

Nghĩa là phải công nhận rằng, cụ Vũ Duy Thanh là một bực văn nho có óc khoa học và có tài sáng chế.

Một chiếc thuyền chiến thời Nguyễn trên Cửu đỉnh: Ô Thuyền là loại thuyền đi biển sơn màu đen, cánh buồm cũng đen, có 12 tay chèo. Loại thuyền này vừa có buồm vừa có tay chèo nên tốc độ nhanh, thường trang bị cho quân tuần tiễu dọc bờ biển

Điều đó chẳng những được chứng thực bằng việc thí nghiệm kiểu tàu ngầm “thủy xa mộc thành” mà thôi người ta lại thấy rõ rệt trong bản “bát điều trần” (tám khoản trần bầy) Xụ dâng lên vua Tự Đức, hồi trong nước vừa xảy ra việc quân sự ở cửa biển Đà Nẵng.

“Bát điều trần” gầm tám điều cụ đề nghị, tâu vua xin cho thực hành gấp bách và triệt để để duy trì và cứu vãn thời thế. Đại khái cụ bàn nên tổ chức lại việc học, cải cách việc tuyển bổ nhân tài khuếch trương nền kinh tế, sửa đổi chánh sự và nhất là vấn đề tang chính quân bị trong nước, cụ bàn rất kĩ. Nào là đặt ra quân luật cho nghiêm minh, nào là mộ quân nghĩa dũng cho nhiều, nhất là tại các hạt Quảng Nam, Quảng Ngãi cùng là gia quyến trước ân huệ, sau họ hang gia quyến họ; nào là đặt mua súng ống, sai chế thuốc đạn theo kịp Bồ Đào Nha, Y Pha Nho.

Chẳng những thế cụ cũng tỏ ra là một nhà khoa học cấp tiến, khi bàn cả đến cách làm cho súng ống tuyệt viên (bắn không có tiếng kêu) là hai vấn đề tới nay các nhà bác học sáng chế Âu Mỹ vẫn còn băn khoăn chưa tìm thấy cách giải quyết ổn thỏa

Lê Văn Hòe

(Nguồn: Báo Trung Bắc Tân Văn, Số 233, 24/12/1944)